Giỗ Tổ Hùng Vương – Wikipedia tiếng Việt

Ngày Giỗ tổ Hùng Vương
Cử hành bởi Việt Nam
Kiểu Văn hóa
Ý nghĩa Tưởng nhớ về nguồn cội 18 đời Vua Hùng
Ngày ngày 10 tháng 3 âm lịch
Năm 2021 22 tháng 3
Năm 2022 10 tháng 4
Hoạt động 10 tháng 3 ÂL
Tần suất Hàng năm

Ngày giỗ Tổ Hùng Vương hoặc Lễ hội Đền Hùng hoặc Quốc giỗ là một ngày lễ của Việt Nam. Đây là ngày hội truyền thống của Người Việt tưởng nhớ công lao dựng nước của Hùng Vương[1]. Nghi lễ truyền thống được tổ chức hàng năm vào mùng 10 tháng 3 Âm lịch tại Đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ và được người dân Việt Nam trên toàn thế giới kỷ niệm và tôn kính.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam ghi danh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (đợt 1) và UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể.

Lăng vua Hùng ở Phú Thọ

Theo Ngọc phả Hùng Vương chép thời Hồng Đức hậu Lê thì từ thời nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần rồi đến Hậu Lê các vua và nhân dân địa phương đều đến lễ bái các vua Hùng.[2] Từ thời xưa, các triều đại quân chủ và phong kiến Việt Nam đã quản lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, tổ chức ngày giỗ Hùng Vương thứ 18 vào ngày 11 tháng 3 âm lịch; đổi lại dân địa phương được triều đình miễn cho những khoản thuế ruộng cùng sưu dịch và sung vào lính.[3]

Sang thế kỷ 20, năm 1917 triều vua Khải Định, Bộ Lễ chính thức gửi công văn ghi ngày 25 tháng 7 phái quan hàng tỉnh của tỉnh Phú Thọ lấy ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch thì cử hành ” quốc tế ” hàng năm, tức là sức cho những quan phải mặc phẩm phục lên đền Hùng thay mặt đại diện triều đình Huế cúng tế .Bia Hùng Vương từ khảo tại đền Thượng do Tham tri, Hữu tuần phủ Phú Thọ là Bùi Ngọc Hoàn soạn, cho biết : “ Năm Khải Định thứ hai, tức năm 1917 lịch dương, Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc có công văn xin Bộ Lễ ấn định lấy ngày mồng 10 tháng 3 hàng năm làm ngày Quốc tế, tức trước ngày giỗ Hùng Vương thứ 18 một ngày, ngày 11 tháng 3, do dân thường trực cúng tế ”. Đây cũng là cứ liệu xác tín nhất để xác lập rõ ràng ngày lễ hội chính thức Giỗ Tổ Hùng Vương 10 tháng Ba âm lịch chỉ được phát hành từ hoàng triều Khải Định .Ngày 10 tháng Ba từ đó được dùng cho toàn nước. Sau khi nền cộng hòa xây dựng, chính phủ nước nhà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh, xem ngày 10 tháng Ba là một trong những ngày lễ hội chính thức của vương quốc, những công chức được nghỉ lễ có hường lương. [ 4 ] Trong lễ Giỗ Tổ năm Bính Tuất ( ngày 11 tháng 4 năm 1946 ), quản trị Hồ Chí Minh dự Lễ giỗ Tổ Hùng Vương tại Nước Ta học xá ( nay là khu vực Trường Đại học bách khoa TP.HN ). Cũng trong ngày này, thừa ủy quyền quản trị nhà nước, Bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng thay mặt đại diện nhà nước lên làm lễ dâng hương tại Đền Hùng, đã dâng 1 tấm map Tổ quốc Việt Nam và 1 thanh gươm quý nhằm mục đích tế cáo với Tổ tiên về quốc gia đang bị Pháp xâm lăng và cầu mong Tổ tiên phù hộ cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình cùng nhau đoàn kết, đánh tan giặc xâm lược, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của quốc gia .Quốc gia Nước Ta Cộng hòa tại Miền Nam Nước Ta cũng đã ghi nhận ngày 10 tháng Ba là ngày nghỉ lễ chính thức [ 5 ] cho đến năm 1975 .Từ năm 2001, ngày giỗ tổ Hùng Vương trở thành quốc lễ nước Nước Ta sau thời kỳ Đổi mới dù nét văn hóa truyền thống và tín ngưỡng này không sâu đậm và phổ cập tại Nam Nước Ta. Từ năm 2007, ngày 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm là ngày nghỉ lễ. [ 6 ] Lễ hội đền Hùng những năm lẻ sẽ do tỉnh Phú Thọ đứng ra tổ chức triển khai. Các năm chẵn sẽ có quy mô ở những cấp TW. Lễ hội đền Hùng không chỉ diễn ra ở khu di tích lịch sử lịch sử vẻ vang đền Hùng Phú Thọ mà sẽ diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước như thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, TP. Đà Nẵng. v.v.Theo Nghị định 82/2001 / NĐ-CP về việc quy ước tiệc tùng đền Hùng thì :
UNESCO đã công nhận ” Tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng ” là ” siêu phẩm truyền khẩu và phi vật thể trái đất ” vào ngày 6 tháng 12 năm 2012. [ 7 ]Trong dân gian Nước Ta có câu lục bát lưu truyền từ rất lâu rồi :

Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm

Các hoạt động giải trí văn hóa truyền thống[sửa|sửa mã nguồn]

Lễ và hội[sửa|sửa mã nguồn]

Lễ hội diễn ra vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, tuy nhiên, tiệc tùng thực ra đã diễn ra từ hàng tuần trước đó với những phong tục như đâm đuống ( đánh trống đồng ) của dân tộc bản địa Mường, hành hương tưởng niệm những vua Hùng, và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với lễ rước kiệu và dâng hương trên đền Thượng. Lễ hội đền Hùng hiện được Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nâng lên thành giỗ quốc Tổ tổ chức triển khai lớn vào những năm chẵn .

Có 2 lễ được cử hành cùng thời điểm ngày chính hội tại đền Hùng

Lễ rước kiệu vua: Đám rước kiệu, nhiều màu sắc của rất nhiều cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương.

Lễ dâng hương: Người hành hương tới đền Hùng chủ yếu vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người đều thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Theo quan niệm của người Việt, mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương.

Phần hội có nhiều game show dân gian. Đó là những cuộc thi hát xoan ( tức hát ghẹo ), một hình thức dân ca đặc biệt quan trọng của Phú Thọ, những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi những vua Hùng rèn luyện những đoàn thủy binh luyện chiến .

Trang phục tế lễ[sửa|sửa mã nguồn]

Bộ lễ phục được mặc trong lễ dâng hương ( từ năm 2000 đến 2020 ) được thực thi theo mẫu của họa sỹ Ngô Thu Nga – Viện mẫu thời trang Fadin .

Bộ lễ phục được thiết kế gồm 3 lớp. Trong cùng là bộ quần áo ta may bằng lụa tơ tằm trắng, tiếp theo là lớp áo màu đỏ điều cũng may trên chất liệu tơ tằm và ngoài cùng là áo the đen để tăng thêm phần lịch sự kín đáo. Hoa văn khá đơn giản, ngoài hai con hạc được thêu bằng chỉ vàng trên cổ áo, họa tiết mặt trời hình trống đồng ở mặt trước khăn xếp đội đầu là hai điểm nổi bật nhất. Tuy đơn giản nhưng bộ lễ phục trên được đánh giá rất cao vì kiểu dáng áo quần vừa phù hợp với các lễ hội truyền thống nhưng cũng rất hiện đại với hai vạt phía trước được phủ hai lớp vải the với đường thẳng khỏe, khăn xếp, đội đầu cao 7cm và có nhiều vành xếp tạo được nét hiện đại, mới mẻ. Bộ lễ phục cũng được cải tiến, không dùng khuy cài áo mà dùng chất liệu dán vừa đẹp vừa tiện lợi.“[8] – lớp áo ngoài cùng sau này đều may bằng vải nhung.[9]

Theo 1 số ít nhà nghiên cứu và điều tra văn hóa truyền thống :

– “Người thiết kế không am hiểu về văn hóa truyền thống, cách tân xấu. Phần thêu hoa văn trống đồng trên áo sử dụng kỹ thuật quá đơn giản trên nền áo đỏ. Chữ “CHỦ LỄ” được in vào chỗ bổ tử của trang phục chủ tế thiếu thẩm mỹ. Khăn đóng bị đội ngược.”

– “Trang phục lai căng, không phải áo tấc cũng không phải ngũ thân.”

– “Áo lễ tay dài rộng, khi đi đứng người mặc phải cung kính chắp tay phía trước, nếu thõng tay thì ống tay tụt xuống. Áo này may ngắn cho nên người mặc dễ dàng đứng thõng tay. Người thiết kế đã cải tiến nhưng vô tình làm cho công năng tay áo không còn nữa.”

– “Bộ VHTTDL không có quy định sớm về các bộ trang phục cho “quốc giỗ” như này thì chết mất! Con cháu đời sau lên google học sử lại cứ tưởng trang phục này là chuẩn mực rồi”.

– “Họ không hiểu kết cấu và vẻ đẹp của áo ngũ thân để phát triển. Tóm lại ông chủ lễ như khoác cái vỏ chăn trên người đứng lễ”.

-“Không khác một bộ áo sân khấu may vội”.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.